Tượng Quan Hoàng Bơ, Tượng quan Hoàng Bảy, Tượng quan Hoàng Mười là ba ông hoàng trong cộng đồng tứ phủ. Tượng thờ các ông được làm tại cơ sở Đồ thờ Sơn Đồng Hà Nội.
Tượng quan Hoàng – Quan Hoàng Bơ – ông Hoàng Bơ.
Tên húy của Ngài: Tống Khắc Bính, là thái tử con vua Nam Tống
Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần
Đền thờ ông Hoàng Bơ ở đâu?
Đền thờ chính: Đền thờ Ngài ở Thanh Hóa gần đền cô Tám. Đền thờ chính của Ngài là ở trên núi nhìn ra biển ở cửa Cờn, ngày nay người ta chuyển thành thờ ông Hoàng Chín, Đền Hưng long và đang được hưng công tại Thái Bình.
Ngài hầu Mẫu ở đền Cờn, Mẫu Hàn Sơn Thanh Hóa, làm việc thoải cung, là 1 trong 4 vị Khâm sai thay quyền vua Mẫu bốn phủ đi bắt lính nhận đồng. Ngài ngự áo xanh theo sắc phong bốn phủ, chít khăn mỏ rìu, mặc áo trấn thủ, đi ghệt tay ghệt chân, thắt đai vàng thành hoa trước ngực, múa hèo. Sau khi làm lễ khai quang, Ngài đi hèo ngự tọa, hiến tửu, nghe thơ, ban phát lộc tài. Đầu năm tháng Giêng, người ta hầu Ngài ngự áo đỏ khăn đỏ chứ không như bây giờ, mặc áo trắng.
Có người lý luận rằng áo Ngài thì Ngài mặc nhưng trong tâm linh Việt Nam cho màu trắng là màu buồn nên đầu xuân kiêng mặc áo trắng. Như vậy mới là hóa thân bất tử giữa trần và âm. Đó là phong cách chứ không phải là sự đơn thuần. Ngài hạ sinh vào thời Nam Bắc Tống phân tranh. Sau khi nhà Nam Tống bị nhà Bắc Tống đánh bại, Ngài dong thuyền ra biển Đông và thác hóa. Thân y trôi vào cửa Cờn được ông Hoàng Chín lúc bấy giờ đang tu ở đó vớt lên chôn cất.
Sau này Ngài phù Lý, Trần anh kinh hiển hách được nhân dân gọi là ông Hoàng Bơ Thoải. Đền thờ Ngài hiện nay đã bị những kẻ vô học chuyển thành đền ông Hoàng Chín. Ngưỡng mong những nhà nghiên cứu cũng như những người có chức có quyền và chức đồng đạo sớm trả lại đền thờ của Ngài theo đúng nghĩa.
Hầu giá ông Hoàng Bơ
Quan Hoàng Bơ là một trong tứ vị Khâm sai nhận lệnh vua Mẫu đi bắt lính nhận đồng. Khi ngự đồng, Ngài mặc áo trắng có thêu hình rồng uốn lượn thành chữ Thọ, thắt đai vàng, đầu đội khăn xếp thắt lét trắng, cài kim lệch trắng màu bạc. Khi ngự về tấu hương, Ngài khai hoang rồi một tay cầm mái chèo, một tay cầm quạt thong thả dạo chơi. Cũng có khi ông cầm đôi hèo, thể hiện hình ảnh đang cưỡi ngựa chu du.
Sau khi làm lễ khai quang, Ngài sẽ ngự tọa, hiến tửu, nghe thơ và ban phát tài lộc cho người dâng lễ.
Tượng quan Hoàng – Quan Hoàng Bảy – ông Hoàng Bảy.
Ông Hoàng Bảy còn có tên gọi khác là Ông Hoàng Bảy Bảo Hà, thuộc hàng vị thứ 7 trong Thập vị Quan Hoàng thuộc hệ thống thần linh Tứ Phủ. Hằng năm, vào dịp tháng 7 (âm lịch), đất Bảo Hà, Lào Cai lại đông nghịt khách tứ phương về đền thờ ông để lễ bái, cầu cúng.
Đền thờ chính của ngài là Bảo Hà, được xây dựng vào cuối đời Lê, dưới chân núi Cấm, huyện Bản Yên, tỉnh Lào Cai,
Các tích về ngài không thống nhất nhau. Tích thì cho rằng ngài hi sinh trong lúc đánh giặc Trung Quốc, tích thì cho rằng ngài bị những kẻ nghi kị trong triều đình sát hại. Nhưng tựu chung lại ngài đã giáng trần và đầu thai làm tướng Nguyễn Hoàng Bảy trấn vùng rừng núi biên ải giáp Trung Quốc. Thế cho nên khi ngự đồng, ngài thường mặc áo lam hoặc tím chàm thêu rồng, đầu đội khăn xếp có thắt lét lam, cài chiếc kim lệch màu ngọc thạch. Ông ngự về tấu hương, khai quang rồi cầm đôi hèo, cưỡi ngựa đi chấm đồng. Đến giá Ông Bảy về ngự, nếu ông ném cây hèo vào người nào thì coi như ông đã chấm đồng người đó. Lúc ông giá ngự, thường dâng ông ba tuần trà tàu rồi thuốc lá có tẩm thuốc phiện.
Sự tích ông Hoàng Bảy Bảo Hà
Ông Hoàng Bảy là ai, lịch sử ông Hoàng Bảy như thế nào vẫn là câu chuyện có nhiều dị bản được lưu truyền. Dựa vào những tài liệu lịch sử đáng tin cậy thì, ông là con Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình. Theo lệnh Vua Cha, ông đã giáng trần vào cuối thời Lê, trở thành con trai thứ Bảy trong dòng họ nhà Nguyễn.
Khi giặc phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược địa phận phủ Quy Hóa (nay là Yên Bái và Lào Cai), tình hình trong nước cũng rất hỗn loạn. Danh tướng thứ Bảy nhà họ Nguyễn được nhà vua cử đi đánh đuổi giặc. Ông đã giải phóng và xây dựng Bảo Hà thành khu căn cứ lớn để tổ chức các thổ ty và luyện tập quân sĩ. Khi lực lượng lớn mạnh, ông đã cho tập hợp quân tiến đánh giặc tại Lào Cai, giải phóng các châu thuộc phủ Quy Hóa.
Tượng quan Hoàng – Quan Hoàng Mười – ông Hoàng Mười.
Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.
Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.